Chẩn đoán bệnh dịch tả lợn châu phi (African Swine Fever)

1. Chẩn đoán lâm sàng

Lợn nhà là loài động vật bị nhiễm tự nhiên bởi virus ASF. Lợn rừng Châu Âu bị nhiễm ASFV với triệu chứng lâm sàng và tỷ lệ chết cao. Bệnh dịch tả lợn Châu Phi lưu hành ở Châu Phi bởi vòng truyền lây giữa các loài lợn hoang dã và ve mềm. Một số loài ve mềm Orithodoros moubata ở Châu Phi và O. erraticus ở bán đảo Iberia là nguồn chưa và vector sinh học ASFV.

Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi thường lây lan giữa lợn nhà thông qua tiếp xúc đường miệng hoặc mũi, hoặc các vết cắn. Động vật hết bệnh sau khi nhiễm bệnh cấp tính và mạn tính có thể bị nhiễm bệnh trở lại, và trở thành vật mang ASFV. Bệnh có thể xảy ra quanh năm. Lợn nhà ở mọi lứa tuổi đều dễ dàng mắc bệnh.

ASFV đề kháng mạnh với môi trường đặc biệt là nhiệt độ và pH. ASFV phân lập từ huyết thanh và máu lưu trữ nhiệt độ phòng trong vòng 18 tháng. Tuy nhiên, ASFV bị bất hoạt khi xử lý ở 60 độ C trong 30 phút, virus cũng được bất hoạt bởi các thuốc khử trùng thương mại. Trong các sản phẩm thịt đông lạnh hoặc chưa nấu chín ASFV có thể tồn tại trong vài tuần hoặc cả tháng, không tìm thấy ASFV ở thịt lợn đã nấu hoặc đóng hộp được xử lý nhiệt ở 70 độ C.

Thời gian virus dịch tả lợn Châu Phi ủ bệnh trong tự nhiên thường từ 4-19 ngày. Các chủng virus độc lực cao gây xuất huyết ở thể bán cấp tính và cấp tính với đặc điểm sốt cao 40-41 độ C, bỏ ăn uống, xuất huyết ở da và các cơ quan nội tạng, chết trong vòng 4-10 ngày, đôi khi chết trước khi có dấu hiệu lâm sàng đầu tiên. Tỷ lệ tử vong có thể lên đến 100%. Các dòng virus độc lực thấp có triệu chứng lâm sàng không điển hình như sốt nhẹ, giảm ăn và mệt mỏi – dễ bị nhầm lẫn với một số tình trạng bệnh lý khác ở lợn và có thể không nghi ngờ đến ASF. Lợn bị nhiễm các dòng virus độc lực thấp không bị xuất huyết và hình thành kháng thể, nhưng cũng có thể tìm thấy bệnh tích rời rạc trên phổi hoặc trên da ở những vùng xương nhô ra và các vùng bị chấn thương ở một vài con.

Thể bán cấp tính và mạn tính thường gặp hơn thể cấp tính. Thể bán cấp tính được đặc trưng bởi giảm tiểu cầu, bạch cầu và xuất huyết. Thể mạn tính được đặc trưng bởi hô hấp thay đổi, sảy thai và tỷ lệ tử vong thấp.

Có nhiều bệnh tích khác nhau được quan sát tùy thuộc vào chủng độc lực của virus. Bệnh tích đặc trưng của thể cấp tính và bán cấp tính là xuất huyết lan rộng và mô lympho bị phá hủy. Ngược lại, thể mạn tính bệnh tích ít hoặc không xuất hiện.

Thể cấp tính: Bệnh tích đại thể chính được quan sát ở lách, hạch lympho, thận và tim. Lá lách có thể bị sậm màu, sưng to, nhồi huyết. Các hạch lympho xuất huyết, phù. Thận xuất huyết kim châm ở vỏ thận. Xuất hiện dịch trong các xoang, xuất huyết đốm trên niêm mạc bàng quang, phổi. Trong một số trường hợp thấy xuất huyết ở màng ngoài tim.

Thể bán cấp tính: được đặc trưng bởi xuất huyết mảng rộng trên hạch lympho và thận, lách sưng to và xuất huyết, phổi sung huyết và phù nề, viêm phổi kẽ.

2. Chẩn đoán trong phòng thí nghiệm

2.1. Lấy mẫu

Mẫu bệnh phẩm: máu chống đông, lách, hạch bạch huyết, hạch amidan, thận, dịch tiết, dịch nổi tế bào sau khi phân lập virus để phát hiện virus. Mẫu bệnh phẩm là huyết thanh để phát hiện kháng thể ASFV.

Chú thích: Đối với máu chống đông dùng kim tiêm vô trùng 18G lấy khoảng 5 mL máu của động vật đang sốt nghi mắc bệnh cho vào ống nghiệm có chất chống đông EDTA, lắc nhẹ.

Mẫu được bảo quản trong túi nilon hoặc lọ đựng bệnh phẩm vô trùng, tất cả được đặt trong thùng bảo ôn và vận chuyển trong điều kiện từ 2-8 độ C. Mẫu bệnh phẩm gửi đến phòng thí nghiệm trong vòng 24 giờ sau khi lấy, kèm theo phiếu gửi bệnh phẩm, nếu quá thời gian đó, bệnh phẩm phải được bảo quản ở nhiệt độ đông băng từ -20 đến -80 độ C. Huyết thanh bảo quản ở nhiệt độ từ 2-8 độ C tối đa 7 ngày. Lưu mẫu bệnh phẩm ở nhiệt độ -20 độ C (đối với mẫu huyết thanh) và -80 độ C (đối với các mẫu bệnh phẩm khác).

2.2. Phát hiện kháng nguyên

a. Phương pháp miễn dịch huỳnh quang (FAT): Sử dụng trong nghiên cứu.

b. Phương pháp PCR và realtime PCR: Phát hiện DNA của virus ASFV trong các mẫu xét nghiệm.

2.3. Phát hiện kháng thể

a. Phương pháp ELISA phát hiện kháng thể: Sử dụng bộ kit ELISA thương mại để phát hiện kháng thể kháng ASFV. Bộ kit hiện được sử dụng chẩn đoán hiện nay là: INgezim PPA COMPAC (eurofins-technologies.com)

b. Phương pháp miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA): sử dụng trong nghiên cứu.

3. Đọc kết quả xét nghiệm

Lợn được xác định mắc bệnh dịch tả lợn Châu Phi khi có các đặc điểm dịch tễ học, triệu chứng lâm sàng, bệnh tích của bệnh dịch tả lợn Châu Phi và phải có kết quả dương tính với một trong những phương pháp xét nghiệm sau:

2.2.a. Phương pháp miễn dịch huỳnh quang (FAT) phát hiện virus dương tính

2.2.b. Phương pháp PCR và realtime PCR phát hiện virus dương tính

2.3.a. Phương pháp ELISA phát hiện kháng thể dương tính ở lợn chưa tiêm phòng

2.3.b. Phương pháp miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA) phát hiện kháng thể dương tính ở lợn chưa tiêm phòng.

Nguồn:

TCVN 8400-41:2019. Bệnh động vật – Qui trình chẩn đoán – Phần 41: Bệnh Dịch tả lợn Châu Phi.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

error: Xin đừng copy em!